Home ] Cộng Sản VN SupDo ] Cộng Sản Bỏ Lỡ ] HoaKỳ ĐổiChiếnLược ] BảnChất ChếĐộ Cộng-Sản ] Vụ Đồng Chiêm ] Đảng CS...Mốc ThờiGian ] Nghĩ về Ngày 19-8 ] Vai Tṛ Giáo Dục ] ĐấuTranh ChânThiệnMỹ ] BảnChất ChếĐộ CộngSản ] QuanTrọng Của ThểChế ] Làm ThếNào KhôngSợ ] Đâu Là ConĐường DânChủ ] PhậtĐản LHQ V ] [ LưLuận CS Sailầm ] CáchMạng Tháng 10 ] CáchMạng Chưa Xảy Ra ] Ngày 2-9 Đại-Hoạ VN ] ĐấuTranh ThếNào? ] GiớiThiệu ChuChiNam ] Lời HT ThíchQuảngĐộ ] TẩyChay Bầu Cử ] Cách Mạng Sẽ Xảy Ra ] TạiSao CS Xử Cha Lư Lúc Này ] Lư Luận Sai Lầm của Marx ] Tư Tưởng Marx phản Văn Hoá ] Thế Tất Thắng Của Dân Chủ ] Chế Độ Dân Chủ, Cộng Sản ] Gậy Ông Đập Lưng Ông ] Cách Mạng Hay Cải Cách ] unesco-Hồ Chí Minh không Văn Hoá ] Địa Lư Chiến Lược ] Mô H́nh Phát Triển ] Hoa Kỳ, Mi là Ai? ] Ư Kiến Về Hoàng-Tùng ] Chiến Thắng Man Dại ] Đấu Tranh Đúng Chiều Hướng ] Trần Hưng Đạo & HCM ] Cùng Làm Cách Mạng ] Số Phận Chế Độ Độc Tài ] Chính Sách Đàn Áp Tôn Giáo ] Nghị Luận ]

 

NHỮNG LƯ LUẬN ĐƠN GIẢN, NGỤY BIỆN VÀ SAI LẦM CỦA CỘNG SẢN 

Lư luận đơn giản là thay v́ nh́n sự vật dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chỉ nh́n nó dưới một cạnh, sau đó t́m cách tổng quát hóa, đưa thành định luật. Lư luận ngụy biện là thay v́ có đủ nguyên nhân rồi mới đi đến kết luận, nhưng chỉ đưa ra một vài nguyên nhân, chưa đủ, rồi đă kết luận. Theo tinh thần khoa học, th́ phải có nguyên nhân ắt có, rồi nguyên nhân đủ, mới đi đến kết luận. Như để trở thành nước, th́ phải có Hydrogène và Oxygène, đó là nguyên nhân ắt có ; tuy nhiên phải có 2 nguyên tử Hydrogène và 1 nguyên tử Oxygène mới thành nước, đó là nguyên nhân đủ. Đó là đối với khoa học chính xác như hóa học, vật lư, thiên văn, toán học. C̣n đối với khoa học nhân văn, không chính xác, th́ rất là khó định nguyên nhân, ngay dù là ắt có và đủ. Chẳng hạn như trong lịch sử, ngay dù trong quá khứ, đưa ra một vài sự kiện, rồi đă kết luận là lịch sử thế này, lịch sử thế nọ, lập nó lên thành quy luật; bảo đó là khoa học lịch sử ; nhất là từ đó lại suy diễn cho tương lai, bảo rằng lịch sử đi theo chiều hướng này, đi theo chiều hướng nọ; đó là ngụy biện, sai lầm. Từ chỗ đơn giản hóa, ngụy biện, th́ dễ dàng đi đến sai lầm.

Nói đến những lư luận đơn giản hóa, ngụy biện và sai lầm của cộng sản th́ có rất nhiều. Có thể nói nó bắt đầu từ Marx, Engels, qua Lénine, Staline rồi tới cộng sản Việt Nam. Chúng ta hăy xét từng trường hợp một.

I ) Lư luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm của Marx và Engels

Ai cũng biết K. Marx viết Tuyên Ngôn Thư Đảng Cộng Sản vào tuổi 30, v́ Marx sinh năm 1818 và viết vào cuối năm 1847, đầu năm 1848.

Thật vậy, Liên minh những Người đúng ( Ligue des Justes) họp ở Luân đôn, Anh quốc vào đầu tháng sáu 1847, và qua những trao đổi thư từ giữa Marx và những người tham dự, qua đề nghị của Marx, Liên minh đă đổi thành Liên Minh những người Cộng sản ( Ligue des Communistes). Điều đáng tiếc là v́ tiền bạc khó khăn Marx không thể tham dự. Người đại diện Marx là Engels, đă được Hội Nghị đề cử ghi chép tất cả những ư kiến của những người phát biểu , rồi trao cho Marx để viết. Nhưng Marx cứ chần trừ không viết ; mặc dầu đă có nhiều lần khuyến cáo của Ủy Ban Trung ương Liên minh. Ngày 26/1/1848, Ủy Ban Trung Ương thông báo từ Luân Đôn cho Đại diện Liên minh ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ, nơi Marx đang sống lưu vong, quyết định của tổ chức vào ngày 24/01, yêu cầu Marx trả lại tất cả những điều mà Engels đă ghi chép ở Đại hội để cho người khác viết, để kịp ấn bản vào đầu tháng hai. Lúc đó Marx mới quyết định viết và đă hoàn thành vào tuần cuối của tháng 01. Viết đúng một tuần. ( Theo J. Attali – Karl Marx ou l’esprit du monde – trang 139 – Ed. Fayard- Paris 2005 ). Điều này chứng tỏ Marx rất thông minh, viết một quyển sách nổi tiếng thế giới vào tuổi 30, trong ṿng 1 tuần. Tuy nhiên nó cũng nói lên rằng, những cái ǵ Marx viết trong Tuyên Ngôn Thư chưa phải là điều Marx suy nghĩ chín chắn, nghiên cứu tới nơi tới chốn, nó bắt nguồn từ những cảm hứng, tinh thần lăng mạng, hơn là những cái ǵ có tính cách suy nghĩ, kiểm nghiệm từ lâu trên phương diện lịch sử, kinh tế và xă hội. Marx là một người rất lăng mạng, từ thiếu thời và ngay cả khi về già.

Marx bắt đầu Tuyên Ngôn Thư bằng câu : « Lịch sử nhân loại cho tới ngày hôm nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp. « ( K. Marx – Le manifeste du Parti communiste – trang 19 – Union générale d’Editions – Paris 1962). Đây là một cái nh́n đơn giản tối đa, nếu không muốn nói là sai lầm về lịch sử. Chúng ta có thể nói vào tuổi 30, Marx chưa đủ thời gian để đọc hết lịch sử các quốc gia của nhân loại, thế mà Marx vẫn thản nhiên viết như vậy. Nh́n lịch sử nhân loại qua lịch sử của đấu tranh giai cấp là đơn giản hóa tối đa lịch sử, nếu không muốn nói là làm sai lịch sử. (1) Lịch sử là ǵ, nếu không là tất cả những hành động của con người, của một cộng đồng được ghi chép lại, thường người ta chỉ ghi chép những biến cố quan trọng. Trong lịch sử nhân loại có rất nhiều sự kiện ông lănh chúa này mang quân đánh ông lănh chúa kia, v́ một nguyên do rất tầm thường, nhiều khi tranh giành một người phụ nữ đẹp; hay anh em tranh nhau ngôi báu, như trường hợp anh em Nguyễn Huệ, đâu có phải bắt nguồn từ giai cấp khác nhau. Những sự kiện này rất nhiều trong lịch sử nhân loại. Phải chăng những sự kiện này, dưới cái nh́n của Marx, không phải là lịch sử ?

Thêm vào đó, Marx c̣n cho rằng lịch sử là lịch sử của bạo động. Ở điểm này Marx đă lấy cái ǵ bất b́nh thường làm cái b́nh thường và đưa lên hàng định luật, không có một tư ǵ là khoa học. Không cần nói đâu xa, chúng ta cứ quan sát lịch sử của một con người hay ngay của cả một quốc gia, th́ chúng ta sẽ rơ. B́nh thường, con người ai cũng muốn sống yên thân, trong ḥa b́nh, họ chỉ bạo động, khi bắt buộc. Một qyuốc gia cũng vậy. Chúng ta cứ lấy lịch sử 2 quốc gia Pháp, Đức đă là nguyên do và tác nhân chính của 2 trận thế chiến. Nhưng đây cũng chỉ là bất b́nh thường, c̣n b́nh thường th́ 2 quốc gia này vẫn sống ḥa b́nh với nhau.

Marx c̣n viết : « Người cộng sản có thể thâu tóm lư thuyết của ḿnh trong một câu duy nhất : Băi bỏ quyền tư hữu. « ( Tuyên Ngôn thư – trang 36). Ở đây Marx đă đơn giản tối đa lư thuyết về chủ nghĩa xă hội và đồng thời lư thuyết của ḿnh, làm cho người về sau áp dụng lư thuyết của Marx chỉ cần để trong đầu câu nói duy nhất là băi bỏ quyền tư hữu. Đấy là chưa nói đến việc tư tưởng của Marx về quyền tư hữu không có tính khoa học và sai lầm.

Thật vậy, Marx và Engels, nhất là Engels, trong quyển Nguồn gốc của gia đ́nh, của quyền tư hữu và của nhà nước ( L’Origine de la famille, de la proprité privée et de l’etat ), đă dựa vào công tŕnh nghiên cứu của một số nhà xă hội học như Morgan về một vài xă hội thời thượng cổ, rồi đi đến kết luận là xă hội nguyên thủy của loài người không có quyền tư hữu, là thiếu khoa học ; v́ đó mới chỉ là những điều kiện ắt có, chưa phải là những điều kiện đủ để đi đến kết luận như vậy. Marx và Engels c̣n lầm lẫn ở chỗ là quyền tư hữu không thể băi bỏ, mà chỉ có thể chuyển nhượng. Kinh nghiệm gần 100 năm, từ ngày nhà nước cộng sản được thành lập bởi Lénine vào năm 1917 cho tới nay, đă chứng minh rất rơ là quyền tư hữu không thể băi bỏ , mà chỉ có thể chuyển nhượng. Đảng cộng sản, gồm một nhóm người, sau khi cướp được chính quyền, đánh tư bản, mại sản, bảo rằng băi bỏ quyền tư hữu ; nhưng thực tế là chuyển nhượng quyền tư hữu từ tay toàn dân vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ. Việc dân oan khiếu kiện v́ bị cướp đất, đuổi nhà không chỉ có ở Việt Nam mà c̣n có ở Trung Cộng, ở Căm bốt. Nó bắt nguồn từ lư thuyết sai lầm của Marx về quyền tư hữu. Hơn thế nữa quyền tư hữu là một nguyên động lực giúp con người làm việc. Nay ở những nước cộng sản, toàn dân bị tước quyền tư hữu, không c̣n muốn làm việc, cảnh « Cha chung không ai khóc, ruộng chung không ai cày, nhà chung không người chăm sóc «, ở những nước cộng sản là vậy .

Theo Engels, th́ Marx đă làm ra 2 phát minh lớn : 1) « Giống như Darwin phát minh ra qui luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx phát minh ra qui luật phát triển của lịch sử con người. « 2) « Giá trị thặng dư là phát hiện thứ hai vĩ đại của Marx . » Chúng ta sẽ suy nghĩ về 2 vấn đề này.

1)         Về Darwin

Darwin ( 1809-1882) sinh trước Marx (1818-1883) 9 năm, chết trước Marx 1 năm. Người ta có thể nói là 2 người cùng thời. Hơn thế nữa 2 người cùng ở Anh, cách nhau khoảng mấy chục dặm. Năm 1859, Darwin cho xuất bản quyển Nguồn gốc chủng loại và những phương tiện lựa chọn tự nhiên ( L’origine des espèces et des moyens de la sélection naturelle) ; cũng là năm Marx cho xuất bản quyển Tư bản luận bằng tiếng Đức. Người đọc Darwin trước tiên là Engels. Ông này đă hăng say nói với Marx rằng Darwin là người cùng phía với chúng ta ; v́ Darwin tin rằng có một lịch sử thế tục của nhân loại và có một sự đấu tranh sống c̣n cho cuộc sống. ( Theo J. Attali – Karl Marx ou l’esprit du monde – trang 248 – nhà xuất bản Fayard – 2005-Paris). Engels đề nghị là phải gặp Darwin. Việc mà Marx đă làm, bằng cách là viết một cái thư và biếu ông ta một quyển sách Tư bản luận bằng tiếng Đức. Nhưng không có trả lời. Một vài năm sau, khi quyển Tư bản luận được dịch ra bằng tiếng Anh, Marx lại viết một bức thư và gửi tặng Darwin quyển sách bằng tiếng Anh. Lần này có hồi âm ; nhưng dè dặt và lạnh nhạt ; v́ Darwin cho rằng lư luận của ông chỉ áp dụng cho khoa học thiên nhiên, chứ không phải cho khoa học nhân văn, chỉ áp dụng cho loài vật, chứ không cho loài người ; và sự lựa chọn tự nhiên giữa loài vật, nó xẩy ra tự nhiên, t́nh cờ, chứ không theo một tiến tŕnh nào cả, nhất là không theo tiến tŕnh biện chứng pháp như Marx và Engels nghĩ. Ông c̣n thêm rằng « tư tưởng của Marx có tính chất tuyên truyền, không khoa học, vô thần, chống thiên chúa và có hại cho việc giải phóng trí tuệ của con người. « ( Sách vừa dẫn – trang 403). Những sự kiện này, Marx và Engels biết rơ hơn ai hết, thế mà vẫn thản nhiên viết :

« Thiên nhiên là viên đá thử vàng của biện chứng pháp và phải nói rằng những khoa học hiện đại của thiên nhiên đă cấp cho vấn đề này những nhiên liệu vô cùng quí giá và nó tăng lên mỗi ngày ; khoa học hiện đại đă chứng minh rằng thiên nhiên, cuối cùng đă biến chuyển một cách biện chứng pháp ( dialectiquement), chứ không phải một cách siêu h́nh ( non métaphysiquement), rằng thiên nhiên không biến chuyển theo một chu kỳ giống nhau măi măi, lập lại hoài hoài ; mà thiên nhiên có một lịch sử thật sự. Về điểm này, chúng ta cần nhắc tới Darwin, người đă dáng một quả búa nặng nề cho quan niệm siêu h́nh về thiên nhiên, bằng cách chứng minh rằng toàn thể thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu ngày hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong đó có con người, đều là sản phẩm của một tiến tŕnh phát triển đă kéo dài hàng bao triệu năm nay. « ( Engels - dẫn bởi Staline, trong Histoire du Parti communiste/ Bolchévik de l’U.R.S.S. – trang 118-Editions Norman Béthume - Paris-1971).

Thiên nhiên biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển như thế nào ? Trước khi trả lời câu này, chúng ta cùng xem xét chữ biện chứng pháp.

Chữ Dialectique ( Biện chứng) đi từ chữ Hy Lạp ( Grec) Dialegein có nghĩa là Đối thoại với người khác. Nguyên thủy, biện chứng có nghĩa là nghệ thuật đối thoại, đă được Socrate dùng để chứng minh chân lư với người đối thoại của ḿnh. Platon đă cho rằng tư tưởng con người ngay dù nó một ḿnh cũng tự đối thoại qua biện chứng. Hégel, triết gia Đức, sinh năm 1770, chết 1831, theo trường phái Duy ư ( idéalisme),thầy của Marx, đă dùng phương pháp biện chứng để cắt nghĩa sự tiến triển của tư tưởng con người. Theo ông tư tưởng con người tiến triển theo tiến tŕnh Đề - Phản Đề - Tổng Đề. Chẳng hạn khi tôi có một ư tưởng (Đề), tôi trao đổi với người khác, gặp một ư tưởng phản bác lại ( Phản Đề). Hai ư tưởng chống đối nhau, rồi sau đó làm thành một tổng hợp ( Tổng Đề). Rồi Tổng Đề bây giời thành Đề, gặp ư tưởng khác, Phản Đề, đối chọi nhau, làm thành Tổng Đề. Cứ như vậy mà tiến hoài, đi từ chỗ ư tưởng chủ quan sang ư tưởng khách quan.

Với Hégel và trường phái Duy Ư ( Idéalisem), chúng ta c̣n hiểu tiến tŕnh phát triển của ư tưởng. Nhưng với Marx và trường phái Duy vật, th́ chúng ta không hiểu vật chất biến chuyển theo biện chứng pháp là thế nào.

Marx đă chỉ trích Hégel, cho rằng thầy ḿnh đă lẫn lộn trong triết học, lấy chân (ư tưởng) làm đầu, và lấy đầu ( vật chất) làm chân. Marx chủ trương duy vật và cho rằng vật chất, thiên nhiên biến chuyển theo biện chứng pháp. Nhưng đây là một điều khó hiểu. Vật chất ( la matière), thiên nhiên, theo nghĩa thông thường và ngay như Engels vừa định nghĩa là « toàn thể thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu ngày hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong đó có con người « biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển thế nào ? Cái ǵ là Đề, cây cỏ chăng ? Cái ǵ là Phản Đề, xúc vật chăng ? Cái ǵ là Tổng Đề, con người chăng ? Chúng ta không có câu trả lời. Đó là định nghĩa vật chất theo mắt người thường. Nếu chúng ta định nghĩa vật chất vào thời Marx, chưa có thuyết nguyên tử, th́ theo nhà triết gia duy vật Hy Lạp, Démocrite ( 370-460 TKN): « Vật chất là cái ǵ nhỏ nhất, không thể phân chia. « Nếu đă là nhỏ nhất, không thể phân chia th́ đâu c̣n Đề - Phản Đề và Tổng Đề.

Sau này với khoa học hiện đại, nhà bác học Đan mạch đă định nghĩa Vật chất là Nguyên Tử, gồm có Electrons, Protrons và Neutrons, vào năm 1913. Nhưng từ đó bảo rằng Nguyên tử tức vật chất biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển thế nào. Cai ǵ là đề, Neutron ? Cái ǵ là Phản Đề, Protrons ? Cái ǵ là Tổng Đề, Electrons ? Câu hỏi này những nhà duy vật sau Marx, với phát minh của Niels Bohr, không có câu trả nời. 

2)         Phát hiện vĩ đại thứ hai của Marx là giá trị thặng dư (2)

Giá trị thặng dư, theo định nghĩa đơn giản của Marx trong những buổi thuyết tŕnh cho thợ thuyền lao động ở Anh, đua thí dụ, đó là trong một hăng sản xuất bánh ḿ, người thợ sản xuất một ngày 10 ổ bánh ḿ ; nhưng người chủ chỉ trả giá trị bằng 6 ổ và giữ lại giá trị 4 ổ. Đó là giá trị thặng dư. Nói một cách tông quát, đó là phần khác biệt giữa cái người thợ sản xuất ra và cái người chủ trả cho người thợ, theo Marx, là chỉ trả giá trị đủ để sống.

Một cách tổng quát th́ người ta hiểu giá trị thặng dư là như vậy. Nhưng làm thế nào để tính giá trị thặng dư bằng con số, tham vọng mà K. Marx muốn thực hiện, như Marx viết cho Engels và bạn bè là muốn tạo cho thợ thuyền một phương tiện đấu tranh khoa học. Hơn thế nữa, v́ theo Marx, hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng chính trị, văn hóa, tôn giáo, thẩm mỹ, nên Marx muốn biến kinh tế thành một khoa học chính xác. Đây là một việc làm không thể thực hiện đươc, v́ kinh tế là khoa học nhân văn, không chính xác. Đây là mục đích mà Marx tự đặt cho ḿnh từ năm 1843, khi ông bắt đầu viết quyển Tư Bản luận ; và đây cũng là lư do cắt nghĩa tại sao Marx bỏ ra cả cuộc đời viết quyển Tư Bản luận mà không hoàn tất, chỉ hoàn tất quyển I, c̣n quyển I I, I I I do Engels gom góp lại tài liệu, sắp xếp, rồi cho xuất bản sau đó.

Hơn thế nữa, khi địng nghĩa gia trị thặng dư, Marx vô t́nh hay cố ư đă quên vai tṛ của chủ. Ngày hôm nay người ta ngay cả thợ thuyền đều phải công nhận chủ đóng một vai tṛ quan trọng không những cho việc tạo ra công ăn việc làm cho thợ, mà cho cả việc phát triển kinh tế quốc gia. Gần đây có một cuộc thăm ḍ ư kiến thợ qua một đài phát thanh của Pháp. Theo đó 99,9 % thợ không muốn trở lên làm chủ, v́ họ ư thức rằng làm chủ không phải dễ và họ không có khả năng, phần lớn ư muốn của thợ thuyền là có một nghề nghiệp hợp với ư thích của ḿnh, có đồng lương bảo đảm cuộc sống cho gia đ́nh và đảm bảo việc làm cho tới tuổi về hưu.

I I ) Lư luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm của Lénine

Nhưng dù sao, với Marx và Engels, nhất là với Marx, trên c̣n tương đối có trời, dưới c̣n tương đối có đất, hai người c̣n đôi chút ngay thẳng trí thức ( prob́té intellectuelle) ; c̣n tới Lénine và nhất là đồ đệ của ông như Staline, Mao trạch Đông và Hồ chí Minh, th́ trên không có trời, dưới không có đất, không có một chút ǵ là ngay thẳng trí thức, người ta có thể làm bất cứ một cái ǵ để đạt tới mục đích. Đây là trường phái bá đạo, và đúng nghĩa hơn là ma đạo hay quỉ đạo. Đúng như lời một trí thức cộng sản Việt Nam, ông Lê xuân Tá, đă là Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật Trung ương đảng : « Sự ngu dốt và thấp hèn tự nó không đáng trách và làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tỵ, th́ nó trở thành quỉ nhập tràng. Và con quỉ này, nó đă ư thức rất sớm và rất rơ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó, chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và văn minh ; nên nó đă đánh những thứ này một cách dă man, tàn bạo, không thương tiếc. Cách mạng Hồng vệ binh ở bên Tàu là vậy ; Nhân văn giai phẩm ở Việt Nam là thế. Nhưng chính v́ nó là thấp hèn và ngu dốt, nên những thứ này đă trở thành sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ cộng sản, làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. «

Những lư luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm c̣n tăng thêm với Lénine, v́ Lénine là đồ đệ của Marx. Hơn thế nữa Marx lư luận đơn giản và ngụy biện sai lầm v́ vô t́nh hay v́ sự hiểu biết về khoa học vào thời ông c̣n giới hạn, hoặc v́ tính lăng mạng, không tưởng của ông. Nhưng đối với Lénine th́ hoàn toàn ngược lại. Ông cố t́nh ngụy biện để lừa dối người khác, lừa dối dân. Như nguyên tắc « Tập trung dân chủ « ( centralisme démocratique) mà ông đưa ra ; ông thừa biết đó là nguyên tắc độc tài tối đa, v́ chính ông định nghĩa trong quyển Phải làm ǵ ( Que Faire) rằng đảng phải theo một kỷ luật sắt, kỷ luật quân đội, người dưới phải tuyệt đối vâng lệnh người trên, tổ chức dưới phải tuân hành lệnh của tổ chức trên ; nhưng ông vẫn cho thêm vào tĩnh từ dân chủ. Như ông viết : « Trong một chữ, sự chuyên môn bao hàm tất yếu sự tập trung ; nó đ̣i hỏi tuyệt đối như vậy ; « ( Lénine – Que Faire – trang 178 – Editions sociales – Paris – 1969). Về sau ông thêm tĩnh từ dân chủ vào thành ra Tập trung dân chủ.Tập trung dân chủ ở đây chữ tập trung là chính, v́ là danh từ, c̣n chữ dân chủ là phụ, v́ là tĩnh từ. Đă tập trung th́ không c̣n dân chủ nữa ; nhưng ông cứ dùng để lừa dối dân. Marx có dùng chữ « Độc tài vô sản « ( dictature prolétarienne) ; nhưng ở đây Marx ngây thơ cho rằng khi vô sản nổi lên làm cách mạng, băi bỏ quyền tư hữu, nguyên nhân của việc đưa đến xă hội phân chia thành giai cấp ; và v́ xă hội chia thành giai cấp, nên mới có Nhà nước ; nay xóa bỏ nguyên nhân của nguyên nhân; th́ Nhà nước sẽ tự biến mất. Từ ngày Marx viết Tuyên Ngôn Thư đảng cộng sản tới nay là 160 năm ; mặc dầu Marx đă bỏ 15 trang trong tổng số 48 trang của bản Tuyên Ngôn Thư ( Theo ấn bản tiếng Pháp của nhà xuất bản Union générale d’Editions – năm 1962) để chỉ trích những nhà xă hội chủ nghĩa trước Marx như Saint Simon, Charles Fourrier, Robert Owen v.v.. . Nhưng ngày hôm nay chúng ta mới thấy Marx mới là không tưởng, ảo tưởng, lăng mạn, không dính ǵ đến thực tế, và không có một chút ǵ khoa học. Marx lầm v́ nhiều khi không tưởng, lăn mạng ; nhưng Lénine lầm nhiều khi cố ư ; v́ Lénine theo trường phái bá đạo, làm bất cứ cái ǵ miễn là đạt được mục đích của ḿnh, từ phương diện thực hành đến lư thuyết. Trên phương diện lư thuyết, Lénine có thể đưa ra những định nghĩa trái hẳn với những định nghĩa từ trước tới giờ, tùy tiện, miễn sao có lợi cho ḿnh th́ thôi. Như Lénine định nghĩa « Xă hội chủ nghĩa là có điện « hay « Người cộng sản là người trung thành với cấp trên nhất. » Đây là nguyên tắc tập trung và như vậy th́ c̣n đâu là dân chủ, mà là độc tài tối đa ; nhưng ông vẫn ghép tĩnh từ dân chủ vào. Ở điểm này cộng sản Việt Nam c̣n gian dối, quỷ quyệt hơn là giữa 2 cụm từ « dân chủ « và « tập trung « , v́ tiếng Việt, nhiều khi tĩnh từ có thể đặt trước hay đặt sau, nên cộng sản Việt Nam đă dịch 2 chữ « Centralisme démocratique » của Lénine thành ra « Dân chủ tập trung « , chứ thực ra phải dịch thành « Tập trung dân chu « .

I I I ) Lư luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm của cộng sản Việt Nam.

Trên phương diện tư tưởng, th́ cộng sản Việt Nam rất là nghèo nàn, không có một đóng góp ǵ cho tư tưởng Mác-Lê. Để bào chữa cho việc thiếu xót này, một số trí thức cộng sản đưa ra luận điệu : « Chúng tôi đă đóng góp cho lư thuyết Mác-Lê bằng máu, bằng xương thịt bằng cách chống Mỹ là quá đủ rồi. « Đây là một ngụy biện để tự bào chữa, v́ đă lẫn lộn thực hành và lư thuyết, không dám can đảm nhận ḿnh kém về phương diện lư thuyết.

Việc đưa Hồ chí Minh lên hàng những nhà tư tưởng chỉ là việc làm tṛ cười cho thiên hạ, v́ chính khi ông c̣n sống, ông đă tuyên bố nhiều lần rằng ông không có tư tưởng ǵ cả, ông đă có Staline và Mao nghĩ hộ. (3)

Là đồ đệ của Lénine, theo trường phái bá đạo, có thể làm bất cứ cái ǵ để đạt được mục đích của ḿnh, cộng thêm rút tỉa được kinh nghiệm quá khứ, cộng sản Việt Nam đă trở thành quỷ quyệt, gian manh, không những trong lănh vực hành động mà c̣n trong lănh vực ngôn từ. Dùng bất cứ ngôn từ ǵ để lừa dối người khác, lừa dối dân, không c̣n một tư ǵ là trung thực, nhiều khi c̣n hănh diện trong những hành động và ngôn từ dối trá lừa gạt của ḿnh. Chẳng hạn như những ngôn từ « Dân làm chủ, đảng lănh đạo, nhà nước quản lư « , « Thời kỳ quá độ lên xă hội chủ nghĩa « , « Chuyên chính vô sản « ; ngày hôm nay th́ đưa ra những luận điệu : « Tự do, dân chủ, nhân quyền là sản phẩm của Tây phương, Đông phương trong đó có Việt Nam không cần « ; cùng nhiều luận điệu khác. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết những luận điệu một.

« Dân làm chủ, đảng lănh đạo, nhà nước quản lư « , thử hỏi dân làm chủ mà không được lănh đạo và không được quyền quản lư, th́ làm chủ ở chỗ nào. Đây chỉ là một khẩu hiệu để lừa dối dân, dùng ngôn từ để lừa bịp dân.

« Thời kỳ quá độ lên xă hội chủ nghĩa « , quá đây là hơn, vượt hơn lên, độ đây là mức độ b́nh thường, « quá độ « là hơn mức độ b́nh thường. Cụm từ này chẳng qua là để chỉ thời kỳ chuyển tiếp từ lúc đảng cộng sản cướp được chính quyền đến lúc xă hội trở thành « xă hội chủ nghĩa « . Theo Marx th́ thời kỳ này gần như rất ngắn, và không có, v́, một khi cướp được chính quyền, đảng cộng sản băi bỏ quyền tư hữu, nguyên nhân sinh ra giai cấp ; và giai cấp là nguyên nhân sinh ra nhà nước, nay nguyên nhân của nguyên nhân bị băi bỏ, th́ nhà nước tự biến mất. Câu hỏi « Tại sao nhà nước không tự biến mất « , khi đảng cộng sản nắm quyền, mà nhà nước lại được tăng cường, được đặt ra ngay vào thời Lénine , rồi sau đó vào thời Staline vào thập niên 30 ; người cộng sản đă viện đủ lư do để bào chữa ; nhưng thực tế cộng sản là trái với lư thuyết của Marx. Rút tỉa kinh nghiệm này, cộng sản Việt Nam, gian manh, quỷ quyệt, thay v́ dùng « Thời kỳ chuyển tiếp » ( Période de transition ), đă dùng « Thời kỳ quá độ « , v́ chữ chuyển tiếp th́ làm người ta đặt câu hỏi : Tại sao chuyển tiếp mà lâu vậy. Thêm vào đó cộng sản Việt Nam cho rằng ḿnh không cần phải trải qua thời kỳ tư bản, mà đi thẳng từ thời kỳ phong kiến lên xă hội chủ nghĩa, nên là thời kỳ quá độ. Dù sao th́ cũng chỉ là một tṛ chơi chữ, để dấu những mưu toan đen tối của ḿnh và để lừa dân.

« Chuyên chính vô sản « không có nghĩa ǵ hơn là độc tài vô sản ( dictature prolétarienne) ; nhưng dùng chũ độc tài, th́ người dân thấy rơ ra bản chất độc tài, nên dùng chữ chuyên chính để dấu bản chất độc tài.

« Tự do, dân chủ, nhân quyền là sản phẩm của Tây phương, Đông phương, trong đó có Việt Nam, không cần những giá trị này « hay « Dân Việt Nam chưa đủ tŕnh độ để có tự do, dân chủ, nhân quyền «,đây là những luận điệu hoàn toàn phản khoa học, phản bản chất toàn cầu của con người. Con người dầu là da vàng, da đen hay da đỏ, ai cũng muốn sống trong tự do, dân chủ, nhân quyền của họ được tôn trọng, bảo đảm. Ngay cả con chim kia chúng ta nhốt nó vào lồng, dù là lồng vàng, dù chúng ta cho nó ăn uống đầy đủ ; thế mà nó vẫn muốn sổ lồng, đi kiếm tự do. Huống chi là con người. Thêm vào đó c̣n có lập luận cho rằng dân tộc Việt Nam chưa đủ tŕnh độ để có tự do, dân chủ ; nếu thực hiện dân chủ th́ đất nước sẽ loạn ; đây là một ngụy biện của tất cả những chế độ độc tài ở trên thế giới. Hơn thế nữa, cũng những người cộng sản này, những người trí thức cộng sản này, trước năm 1975, th́ rao rác lên rằng dân tộc Việt Nam là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « . Ngày hôm nay để bảo vệ chế độ độc tài, th́ họ cho rằng dân tộc Việt Nam chưa đủ tŕnh độ để có tự do, dân chủ. Tôi không tin như vậy. Hiện nay có vào khoảng gần 200 quốc gia, đại đa số đă có chế độ dân chủ, chính quyền do chính người dân bầu ra, qua những cuộc bầu cử dân chủ thực sự, người dân có toàn quyền xử dụng lá phiếu của ḿnh ; chứ không như cảnh Việt Nam « Đảng cử ; dân bâu « , bầu cử gian lận, dối trá, do đảng bắt buộc dân bầu cho người đảng đă chỉ định.

Về những lư luận ngụy biện của cộng sản Việt Nam, th́ c̣n rất nhiều. Nó do tính gian manh, quỷ quyệt của giới lănh đạo, bắt đầu bằng Hồ chí Minh cho tới ngày nay ; cộng thêm với một bè lũ trí thức cộng sản, đă bẻ cong ng̣i bút, khom lưng, quỵ gối, cố nặn óc ra những xảo từ, ngụy ngôn để phục vụ chế độ. Kiểu Tố Hữu :

« Thương biết mấy khi con học nói !

Tiếng đầu ḷng con gọi Staline . “

Thế kỷ 20 vừa qua, nhân loại đă bị sống nhiều thảm trạng : 2 cuộc đại chiến, 2 chế độ độc tài, độc tài phát xít Hitler và độc tài cộng sản. Nhưng thảm trạng giết nhiều người nhất đó là thảm trạng cộng sản: hơn 100 triệu người. (4)

Các dân tộc Nga sô và Đông Âu đă can đảm đứng lên lật đổ trang sử đau thương cộng sản, để viết trang sử mới. Dân tộc Việt nam hăy can đảm đứng lên đấu tranh để lật đổ trang sử đau thương cộng sản, từ lư thuyết qua những lư luận đơn giản, ngụy biện, không tưởng và sai lầm, tới thực hành dă man, côn đồ, gian manh, quỷ quyệt của cộng sản; để viết trang sử tự do, dân chủ, nhân quyền, ấm no và hạnh phúc.

Paris ngày 04/11/2007

Chu chi Nam

------

(1)               Xin qui Vi vào web : http://perso.orange.fr/chuchinam/, để xem những bài phê b́nh lư thuyết của K. Marx trên phương diện triết học

(2)               Xin xem nhưng bài phê b́nh Marx trên phương diện khoa học và kinh tế học trong cùng trang web

(3)               Xin xem một vài suy nghĩ về bài « Thời đại mới, tư tưởng mới « của ông Hoàng Tùng trong cùng trang web

(4)               Xin xem Cách mạng Tháng Mười, ngày đại họa cho dân tộc Nga và cũng là đại họa cho nhân loại cũng trong trang web trên.